Gây tê tuỷ sống là gì? Các công bố khoa học về Gây tê tuỷ sống

Gây tê tuỷ sống là quá trình sử dụng thuốc hoặc phương pháp y tế để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau ở khu vực tuỷ sống. Gây tê tuỷ sống thường được sử dụng t...

Gây tê tuỷ sống là quá trình sử dụng thuốc hoặc phương pháp y tế để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau ở khu vực tuỷ sống. Gây tê tuỷ sống thường được sử dụng trong quá trình phẫu thuật hoặc trong điều trị các bệnh liên quan đến tuỷ sống như tắc nghẽn dây thần kinh tại vị trí tuỷ sống, đau lưng mãn tính hay ung thư tuỷ sống.
Gây tê tuỷ sống (hay còn gọi là tê dây thần kinh sống) là một quá trình y tế mà trong đó các thuốc hoặc kỹ thuật y tế được sử dụng để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau hoặc cảm giác khác trên khu vực tuỷ sống và các thần kinh xung quanh.

Gây tê tuỷ sống thường được thực hiện trong quá trình phẫu thuật hoặc điều trị ngoại khoa liên quan đến tuỷ sống và khu vực xung quanh, nhằm đảm bảo an toàn và giảm đau cho bệnh nhân. Phương pháp này có thể được sử dụng để chẩn đoán, điều trị hoặc giảm đau trong các trường hợp sau:

1. Phẫu thuật tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống được sử dụng trong quá trình phẫu thuật trên tuỷ sống, bao gồm các ca phẫu thuật như phẫu thuật cột sống, đặt ổ đĩa hoặc điều trị thủ công.

2. Đau lưng mãn tính: Gây tê tuỷ sống có thể được áp dụng để giảm triệu chứng đau lưng mãn tính và tăng khả năng di chuyển của bệnh nhân. Thường được sử dụng trong các trường hợp đau dây thần kinh hoặc viêm dây thần kinh.

3. Tắc nghẽn dây thần kinh tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống có thể giảm triệu chứng do tắc nghẽn dây thần kinh tuỷ sống gây ra, như tê bì chân hoặc mất cảm giác trong vùng chân.

4. Ung thư tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống có thể được sử dụng cho bệnh nhân ung thư tuỷ sống để giảm đau hoặc làm giảm triệu chứng gây ra bởi khối u hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều trị u nguyên vùng tuỷ.

Trước khi tiến hành gây tê tuỷ sống, bác sĩ sẽ thận trọng xem xét lợi ích và rủi ro để đưa ra quyết định phù hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể.
Trong quá trình gây tê tuỷ sống, có hai phương pháp chính để thực hiện: gây tê dây thần kinh sống (spinal anesthesia) và gây tê tủy sống (epidural anesthesia). Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về mỗi phương pháp này:

1. Gây tê dây thần kinh sống (spinal anesthesia):
- Quá trình gây tê dây thần kinh sống thường được thực hiện bằng cách tiêm một loại thuốc gây tê (như lidocaine, bupivacaine) vào khoang tủy sống bên trong cột sống.
- Việc tiêm thuốc gây tê gần tủy sống cho phép thuốc nhanh chóng lan tỏa đến các dây thần kinh truyền tín hiệu cảm giác và chức năng từ phía dưới ngực trở xuống chân.
- Gây tê dây thần kinh sống thường dẫn đến mất cảm giác toàn bộ dưới ngực, bao gồm cả khả năng di chuyển và cảm nhận đau. Người bệnh có thể hoàn toàn tê liệt hoặc mất cảm giác trong khu vực này.
- Thời gian tác dụng của gây tê dây thần kinh sống thường kéo dài từ một đến một vài giờ, tùy thuộc vào loại thuốc gây tê được sử dụng.

2. Gây tê tủy sống (epidural anesthesia):
- Quá trình gây tê tủy sống thường bắt đầu bằng việc tiêm một liều nhỏ thuốc gây tê vào khoảng không gian ngoại màng tủy sống.
- Thuốc gây tê ban đầu lan tỏa trong khoảng không gian ngoại màng và tạo ra hiệu ứng gây tê tại dây thần kinh ở vùng bệnh nhân muốn làm tê.
- Gây tê tủy sống thường không gây mất cảm giác hoàn toàn, mà chỉ làm giảm cảm giác đau hoặc cảm giác khác trong vùng được tạo gây tê.
- Gây tê tủy sống thường kéo dài lâu hơn so với gây tê dây thần kinh, thường có thể duy trì trong một thời gian dài, có thể một vài giờ đến một vài ngày.

Cả hai phương pháp gây tê tuỷ sống đều có rủi ro nhất định, bao gồm nhưng không giới hạn ở mức độ tác dụng phụ, như đau đầu, hạ huyết áp, ngứa, nhức mỏi và hiện tượng thâu cảm xảy ra trên một số bệnh nhân. Trước khi thực hiện gây tê tuỷ sống, bác sĩ sẽ tham khảo sức khỏe và tiền sử bệnh lý của bệnh nhân để xác định phương pháp gây tê thích hợp và giảm thiểu rủi ro.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây tê tuỷ sống":

Kháng thể đơn dòng đặc hiệu cho chuỗi nhẹ kappa tự do của người gây ra quá trình apoptose ở tế bào u tủy vô các và thể hiện hoạt động chống khối u trong cơ thể sống. Dịch bởi AI
Blood - Tập 104 - Trang 2416 - 2004
Tóm tắt

Mặc dù đã điều trị bằng hóa trị liều cao và cấy ghép tế bào gốc tự thân, u tủy vô các (MM) vẫn là một loại ác tính không thể chữa được, với tỷ lệ sống sót trung vị 5 năm dưới 20%. Ngoại trừ các kháng nguyên đặc hiệu, ít có mục tiêu kháng nguyên nào được xác định để tạo thuận lợi cho liệu pháp miễn dịch cụ thể cho MM. Chúng tôi đã mô tả trước đó một kháng thể đơn dòng từ chuột công nhận một epitope phụ thuộc hình dạng trên chuỗi nhẹ kappa tự do của con người và một kháng nguyên bề mặt tế bào, KMA, được biểu hiện trên các tế bào u tủy kỳ (MMκ) (Raison, RL và Boux, HA Mol Immunol 1985 22:1393). Ở đây, chúng tôi cho thấy rằng kháng thể từ chuột, được gọi là mKap, đã gắn đặc hiệu đến một loạt các dòng tế bào MMκ và ức chế sự phát triển in vitro của các tế bào này. Phân tích dòng tế bào (nhuộm Annexin-V và PI) của các dòng tế bào MMκ được ủ với mKap cho thấy sự kích thích apoptosis theo liều phụ thuộc. Hơn nữa, sự hiện diện của các caspases hoạt hóa trong các tế bào được xử lý bằng mKap đã được phát hiện bằng cách sử dụng tác nhân CaspACE™ FITC-VAD-FMK. Sự kích thích apoptosis ở tế bào MMκ do mKap gây ra diễn ra mà không cần kháng thể thứ hai liên kết chéo hoặc tế bào hiệu quả. Trong mô hình xenograft khối u trên chuột SCID, hoạt động chống khối u của mKap đã được chứng minh. Sự phát triển của khối u được đo bằng cách định lượng immunoglobulin myeloma tiết ra trong vòng 6 tuần. Từ tuần thứ 4 trở đi, nồng độ immunoglobulin myeloma trong huyết thanh của các nhóm động vật nhận mKap tổng cộng 3.0, 1.5, 0.3 và 0.15 mg được phát hiện thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng chưa điều trị (P<0.005 vào tuần thứ 4; P<0.0001 vào tuần thứ 5). Tính đặc hiệu hạn chế khối u của mKap, cùng với khả năng ức chế sự phát triển tế bào MMκ in vitro và in vivo, gợi ý về khả năng sử dụng phiên bản chimeric hoặc humanized của kháng thể này, một mình hoặc kết hợp với hóa trị, để điều trị MM kappa.

HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP CỦA CÁC LIỀU TRUYỀN TĨNH MẠCH NORADRENALIN KHÁC NHAU TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐỂ MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả dự phòng tụt huyết áp và ảnh hưởng không mong muốn của ba liều truyền tĩnh mạch noradrenalin khác nhau trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 120 sản phụ mang thai đủ tháng có chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai chủ động được chia ngẫu nhiên làm ba nhóm nhận ba liều noradrenalin truyền tĩnh mạch là 0,025 µg/kg/phút; 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút ngay khi gây tê tủy sống. Các tiêu chí đánh giá chính gồm: tỉ lệ tụt huyết áp, tỉ lệ tăng huyết áp, tần số tim chậm, tỉ lệ buồn nôn và nôn, điểm Apgar và khí máu động mạch rốn. Kết quả: Tỉ lệ tụt huyết áp ở nhóm 0,05 µg/kg/phút và nhóm 0,075 µg/kg/phút (đều là 10%) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 0,025 µg/kg/phút (27,5%) (p < 0,05). Tỉ lệ tăng huyết áp ở nhóm liều 0,075 µg/kg/phút là 5% (n=2), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn ở mẹ, điểm Apgar sau 1 và 5 phút, khí máu động mạch rốn của sơ sinh là tương đương nhau giữa ba nhóm (p>0,05). Kết luận: Hai liều truyền tĩnh mạch noradrenalin 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút có hiệu quả làm giảm sự tụt huyết áp sau gây tê tủy sống trong mổ lấy thai hơn liều 0,025 µg/kg/phút. Liều 0,075 µg/kg/phút có thể gây tăng huyết áp. Không có sự khác biệt về tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn, kết quả trên trẻ sơ sinh giữa ba nhóm nghiên cứu.
#noradrenalin #tụt huyết áp #dự phòng #gây tê tủy sống cho mổ lấy thai
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng không mong muốn của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Sự thay đổi về mạch và huyết áp cũng như các thay đổi về hô hấp: SpO2, tần số thở tại các thời điểm nghiên cứu không nhiều, trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt giữa ba nhóm với p > 0,05. Các tác dụng khác như bí tiểu, nôn, rét run, đau đầu không có sự khác biệt giữa 3 nhóm. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng không mong muốn không có sự khác biệt so với liều 0,2mg hay 0,1mg mà tác dụng vô cảm và giảm đau tốt hơn.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN BẰNG DEXAMETHASON 8MG VÀ ONDASETRON 4MG TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN VÀ MORPHIN TRONG MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả dự phòng nôn và buồn nôn bằng dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg trong gây tê tủy sống bằng bupivacain và morphin sulphat để mổ lấy thai thực hiện tại bệnh viện phụ sản Hải phòng trong thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 2/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu có so sánh. Nhóm đối chứng (nhóm 1): sử dụng thuốc chống nôn bằng dexamethasone 8mg và nhóm nghiên cứu (nhóm 2): có sử dụng phối hợp thuốc chống nôn dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethasone (với 15,6%) cao hơn so với nhóm sử dụng phối hợp phối hợp dexamethasone và ondansetron (với 6,9%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mức độ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethason nặng hơn so với nhóm sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron ở tất cả các các mức độ. Kết luận: Nên sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron để dự phòng nôn, buồn nôn cho bệnh nhân gây tê tủy sống trong mổ lấy thai.
#dexamethasone #ondansetron #gây tê tủy sống
HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE Ở SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 64 Số 5 - 2023
Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị tụt huyết áp sau gây tê tủy sống giữa Phenylephrine và Ephendrine trên sản phụ mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu có nhóm chứng trên 63 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chương trình dưới GTTS được điều trị bằng phenylephrine hoặc ephedrine tại Trung tâm Y tế huyện Giồng Riềng từ tháng 1/2022 đến tháng 9/2022. Kết quả: Sau khi gây tê tủy sống, huyết áp có xu hướng giảm, sau khi dùng thuốc co mạch, huyết áp tăng không khác biệt giữa hai nhóm. Sau khi sử dụng Phenylephrine khiến tần số tim giảm mạnh hơn về gần sấp xỉ nhịp tim ở mức nền, trong khi Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể và ổn định hơn. Cung lượng tim giảm đáng kể ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm sử dụng Ephedrine. Nguy cơ Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine. Kết luận: Phenylephrine có tác dụng làm tần số tim giảm mạnh, Ephrine không làm thay đổi tần số tim đáng kể. Cung lượng tim giảm ở nhóm sản phụ sử dụng Phenylephrine và tăng ở nhóm Ephedrine. Phenylephrine làm nhịp tim chậm nhiều hơn Ephedrine, Phenylephrine gây buồn nôn, nôn ít hơn Ephedrine.
#Ephedrine #Phenylephrine #gây tê tủy sống #sản phụ.
Điều trị tụt huyết áp bằng Phenylephrine và Ephedrine sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổi
Nghiên cứu của chúng tôi so sánh hiệu quả điều trị tụt huyết áp bằng ephedrine và phenylephrine tiêm tĩnh mạch sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổi. 60 bệnh nhân cao tuổi (≥ 60 tuổi) tiến hành mổ thay khớp háng theo kế hoạch, bốc thăm chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm được dự phòng tụt huyết áp ngay sau gây tê tủy sống và điều trị khi có tụt huyết áp bằng ephedrine 6 mg và phenylephrine 50 µg. Các chỉ số huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình và nhịp tim được ghi nhận tại các thời điểm từ khi bắt đầu tiêm thuốc đến sau khi tiêm 30 phút. Kết quả nghiên cứu cho thấy huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình của 2 nhóm là khác biệt không có ý nghĩa thống kê tại tất cả các thời điểm, nhịp tim ở nhóm dùng ephedrine cao hơn nhóm dùng phenylephrine ở các thời điểm T4; 7; 10; 15; 20. Nghiên cứu này cho thấy ephedrine và phenylephrine có tác dụng điều trị tụt huyết áp sau gây tê tủy sống mổ thay khớp háng ở người cao tuổi là tương đương với nhau.
#phenylephrine #ephedrine #thay khớp háng #tụt huyết áp #người cao tuổi.
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG PHỤ KHI ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN BẰNG DEXAMETHASON 8MG VÀ ONDASETRON 4MG TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN VÀ MORPHIN TRONG MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng phụ khi điều trị dự phòng nôn, buồn nôn bằng dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg trong gây tê tủy sống bằng bupivacain và morphin sulphat để mổ lấy thai thực hiện tại bệnh viện phụ sản Hải Phòng trong thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 2/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu có so sánh. Nhóm đối chứng (nhóm 1): sử dụng thuốc chống nôn bằng dexamethasone 8mg và nhóm nghiên cứu (nhóm 2): có sử dụng phối hợp thuốc chống nôn dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg. Kết quả nghiên cứu: Các kỹ thuật trên không ảnh hưởng tới huyết động và hô hấp của sản phụ. Tỷ lệ tụt huyết áp HATB từ 20-30% trong nhóm 1 (nhóm đơn độc) là 3,1% thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 2 (nhóm dùng phối hợp 2 thuốc) là 8,6% Nhưng tỉ lệ này thấp hơn so với một số nghiên cứu khác. Kết luận: Nên sử dụng dexamethasone và ondansetron để dự phòng nôn, buồn nôn cho bệnh nhân vì hiệu quả cao và tỉ lệ tác dụng phụ xảy ra thấp.
#dexamethasone #ondansetron #gây tê tủy sống
Thông báo cấp cứu thành công một bệnh nhân ngộ độc thuốc tê toàn thân sau gây tê tủy sống
Ngộ độc thuốc tê toàn thân là biến chứng có thể gặp sau các kỹ thuật gây tê khu vực, đây là biến chứng nguy hiểm, có khi đe dọa đến tính mạng bệnh nhân nên cần được phát hiện sớm và cấp cứu điều trị kịp thời theo phác đồ. Gây tê tủy sống là phương pháp gây tê vùng được ứng dụng phổ biến trên lâm sàng. Gây tê tủy sống cũng gặp một số tác dụng không mong muốn như hạ huyết áp, nhịp tim chậm, tuy nhiên chưa có nhiều báo cáo về ngộ độc thuốc tê toàn thân sau gây tê tủy sống. Trường hợp lâm sàng: Chúng tôi báo cáo trường hợp ngộ độc thuốc tê toàn thân sau gây tê tủy sống để phẫu thuật chi dưới. Bệnh nhân được gây tê tủy sống bằng 7mg bupivacaine 0,5% và 30mcg fentanyl tại vị trí L3-4, tư thế nằm. Sau gây tê 5 phút, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng của hệ thống thần kinh trung ương và trụy tim mạch. Bệnh nhân đã được cấp cứu thành công bằng các biện pháp hồi sinh tim phổi kết hợp với sử dụng nhũ dịch lipid 20%. Kết luận: Gây tê tủy sống cũng có nguy cơ gây ngộ độc thuốc tê toàn thân. Áp dụng phác đồ cấp cứu theo khuyến cáo đã cấp cứu thành công bệnh nhân ngộ độc thuốc tê sau gây tê tủy sống. Chúng ta nên sử dụng nhũ dịch lipid 20% sớm khi có dấu hiệu nghi ngờ ngộ độc thuốc tê toàn thân. Từ khóa: Ngộ độc thuốc tê, gây tê tủy sống, nhũ dịch lipid.
#Ngộ độc thuốc tê #gây tê tủy sống #nhũ dịch lipid
SO SÁNH TÁC DỤNG TRÊN TUẦN HOÀN VÀ CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG CỦA ONDANSETRON VỚI DEXAMETHASON HOẶC METOCLOPRAMID ĐỂ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN TRONG VÀ SAU MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng trên tuần hoàn và các tác dụng không mong muốn của Ondansetron với Dexamethason hoặc Metoclopramid để dự phòng nôn, buồn nôn trong và sau mổ lấy thai. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên 90 sản phụ ASA I-II (20 - 41 tuổi), có chỉ định mổ lấy thai, vô cảm bằng gây tê tủy sống, tại khoa Gây mê hồi sức, Bệnh viện phụ sản Hà Nội từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2020. Các sản phụ được phân loại ngẫu nhiên thành ba nhóm bằng nhau: Nhóm O được tiêm tĩnh mạch 8 mg Ondansetron, nhóm D được tiêm tĩnh mạch 8mg Dexamethason, nhóm M được tiêm tĩnh mạch 10 mg Metoclopramid. Các tác dụng không mong muốn được đánh giá liên tục trong và 24 giờ đầu sau mổ. Kết quả: Tỷ lệ tụt huyết áp của các bệnh nhân ở nhóm Ondansetron là 36,7%; của nhóm Dexamethasone là 56,7% và của nhóm Metoclopramide là 53,3%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỷ ngứa của ba nhóm lần lượt là: 36,7% so với 56,7% và 43,3%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Không gặp trường hợp nào bị đau thượng vị, rối loạn nhịp tim hoặc bị hội chứng ngoại tháp… Kết luận: Tỷ lệ tụt huyết áp của các bệnh nhân ở nhóm Ondansetron thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm Dexamethason hoặc nhóm  Metoclopramid với p<0,05. Tỷ lệ các tác dụng không mong muốn khác như: ngứa, đau thượng vị… không có sự khác biệt giữa ba nhóm. Không gặp trường hợp nào bị rối loạn nhịp tim hoặc bị hội chứng ngoại tháp.
#Gây tê tủy sống #Ondansetron #Dexamethason #Metoclopramid #mổ lấy thai
LIỆT CHI DƯỚI MỘT BÊN SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG PHỐI HỢP NGOÀI MÀNG CỨNG Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT KHỚP GỐI: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Các biến chứng thần kinh nghiêm trọng sau khi phong bế thần kinh, bao gồm cả tổn thương thần kinh vĩnh viễn rất hiếm gặp trong thực hành gây mê hồi sức. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân sau phẫu thuật khớp gối phải được gây tê tủy sống và ngoài màng cứng phối hợp. Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân được theo dõi 4h tại phòng hồi tỉnh rồi chuyển về bệnh phòng điều trị, giảm đau ngoài màng cứng với Levobupivacain 0.1% phối hợp Fentanyl 2mcg/ml và Adrenalin 1/200.000. Hai ngày sau phẫu thuật, bệnh nhân mất cảm giác từ D12 đến gối trái, liệt vận động không gấp được gối trái, kết quả MRI bình thường. Bệnh nhân đang trong giai đoạn phục hồi chức năng. Chúng tôi thảo luận về các yếu tố, nguyên nhân có thể dẫn đến tình trạng trên. Bên cạnh đó chúng tôi thảo luận thêm về chẩn đoán bệnh thoái hoá khớp gối, chỉ định phẫu thuật thay khớp và thay đổi tình huống trong mổ.
Tổng số: 47   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5