Gây tê tuỷ sống là gì? Các công bố khoa học về Gây tê tuỷ sống

Gây tê tuỷ sống là quá trình sử dụng thuốc hoặc phương pháp y tế để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau ở khu vực tuỷ sống. Gây tê tuỷ sống thường được sử dụng t...

Gây tê tuỷ sống là quá trình sử dụng thuốc hoặc phương pháp y tế để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau ở khu vực tuỷ sống. Gây tê tuỷ sống thường được sử dụng trong quá trình phẫu thuật hoặc trong điều trị các bệnh liên quan đến tuỷ sống như tắc nghẽn dây thần kinh tại vị trí tuỷ sống, đau lưng mãn tính hay ung thư tuỷ sống.
Gây tê tuỷ sống (hay còn gọi là tê dây thần kinh sống) là một quá trình y tế mà trong đó các thuốc hoặc kỹ thuật y tế được sử dụng để làm giảm hoặc loại bỏ cảm giác đau hoặc cảm giác khác trên khu vực tuỷ sống và các thần kinh xung quanh.

Gây tê tuỷ sống thường được thực hiện trong quá trình phẫu thuật hoặc điều trị ngoại khoa liên quan đến tuỷ sống và khu vực xung quanh, nhằm đảm bảo an toàn và giảm đau cho bệnh nhân. Phương pháp này có thể được sử dụng để chẩn đoán, điều trị hoặc giảm đau trong các trường hợp sau:

1. Phẫu thuật tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống được sử dụng trong quá trình phẫu thuật trên tuỷ sống, bao gồm các ca phẫu thuật như phẫu thuật cột sống, đặt ổ đĩa hoặc điều trị thủ công.

2. Đau lưng mãn tính: Gây tê tuỷ sống có thể được áp dụng để giảm triệu chứng đau lưng mãn tính và tăng khả năng di chuyển của bệnh nhân. Thường được sử dụng trong các trường hợp đau dây thần kinh hoặc viêm dây thần kinh.

3. Tắc nghẽn dây thần kinh tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống có thể giảm triệu chứng do tắc nghẽn dây thần kinh tuỷ sống gây ra, như tê bì chân hoặc mất cảm giác trong vùng chân.

4. Ung thư tuỷ sống: Gây tê tuỷ sống có thể được sử dụng cho bệnh nhân ung thư tuỷ sống để giảm đau hoặc làm giảm triệu chứng gây ra bởi khối u hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều trị u nguyên vùng tuỷ.

Trước khi tiến hành gây tê tuỷ sống, bác sĩ sẽ thận trọng xem xét lợi ích và rủi ro để đưa ra quyết định phù hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể.
Trong quá trình gây tê tuỷ sống, có hai phương pháp chính để thực hiện: gây tê dây thần kinh sống (spinal anesthesia) và gây tê tủy sống (epidural anesthesia). Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về mỗi phương pháp này:

1. Gây tê dây thần kinh sống (spinal anesthesia):
- Quá trình gây tê dây thần kinh sống thường được thực hiện bằng cách tiêm một loại thuốc gây tê (như lidocaine, bupivacaine) vào khoang tủy sống bên trong cột sống.
- Việc tiêm thuốc gây tê gần tủy sống cho phép thuốc nhanh chóng lan tỏa đến các dây thần kinh truyền tín hiệu cảm giác và chức năng từ phía dưới ngực trở xuống chân.
- Gây tê dây thần kinh sống thường dẫn đến mất cảm giác toàn bộ dưới ngực, bao gồm cả khả năng di chuyển và cảm nhận đau. Người bệnh có thể hoàn toàn tê liệt hoặc mất cảm giác trong khu vực này.
- Thời gian tác dụng của gây tê dây thần kinh sống thường kéo dài từ một đến một vài giờ, tùy thuộc vào loại thuốc gây tê được sử dụng.

2. Gây tê tủy sống (epidural anesthesia):
- Quá trình gây tê tủy sống thường bắt đầu bằng việc tiêm một liều nhỏ thuốc gây tê vào khoảng không gian ngoại màng tủy sống.
- Thuốc gây tê ban đầu lan tỏa trong khoảng không gian ngoại màng và tạo ra hiệu ứng gây tê tại dây thần kinh ở vùng bệnh nhân muốn làm tê.
- Gây tê tủy sống thường không gây mất cảm giác hoàn toàn, mà chỉ làm giảm cảm giác đau hoặc cảm giác khác trong vùng được tạo gây tê.
- Gây tê tủy sống thường kéo dài lâu hơn so với gây tê dây thần kinh, thường có thể duy trì trong một thời gian dài, có thể một vài giờ đến một vài ngày.

Cả hai phương pháp gây tê tuỷ sống đều có rủi ro nhất định, bao gồm nhưng không giới hạn ở mức độ tác dụng phụ, như đau đầu, hạ huyết áp, ngứa, nhức mỏi và hiện tượng thâu cảm xảy ra trên một số bệnh nhân. Trước khi thực hiện gây tê tuỷ sống, bác sĩ sẽ tham khảo sức khỏe và tiền sử bệnh lý của bệnh nhân để xác định phương pháp gây tê thích hợp và giảm thiểu rủi ro.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gây tê tuỷ sống":

Kháng thể đơn dòng đặc hiệu cho chuỗi nhẹ kappa tự do của người gây ra quá trình apoptose ở tế bào u tủy vô các và thể hiện hoạt động chống khối u trong cơ thể sống. Dịch bởi AI
Blood - Tập 104 - Trang 2416 - 2004
Tóm tắt Mặc dù đã điều trị bằng hóa trị liều cao và cấy ghép tế bào gốc tự thân, u tủy vô các (MM) vẫn là một loại ác tính không thể chữa được, với tỷ lệ sống sót trung vị 5 năm dưới 20%. Ngoại trừ các kháng nguyên đặc hiệu, ít có mục tiêu kháng nguyên nào được xác định để tạo thuận lợi cho liệu pháp miễn dịch cụ thể cho MM. Chúng tôi đã mô tả trước đó một kháng thể đơn dòng từ chuột công nhận một epitope phụ thuộc hình dạng trên chuỗi nhẹ kappa tự do của con người và một kháng nguyên bề mặt tế bào, KMA, được biểu hiện trên các tế bào u tủy kỳ (MMκ) (Raison, RL và Boux, HA Mol Immunol 1985 22:1393). Ở đây, chúng tôi cho thấy rằng kháng thể từ chuột, được gọi là mKap, đã gắn đặc hiệu đến một loạt các dòng tế bào MMκ và ức chế sự phát triển in vitro của các tế bào này. Phân tích dòng tế bào (nhuộm Annexin-V và PI) của các dòng tế bào MMκ được ủ với mKap cho thấy sự kích thích apoptosis theo liều phụ thuộc. Hơn nữa, sự hiện diện của các caspases hoạt hóa trong các tế bào được xử lý bằng mKap đã được phát hiện bằng cách sử dụng tác nhân CaspACE™ FITC-VAD-FMK. Sự kích thích apoptosis ở tế bào MMκ do mKap gây ra diễn ra mà không cần kháng thể thứ hai liên kết chéo hoặc tế bào hiệu quả. Trong mô hình xenograft khối u trên chuột SCID, hoạt động chống khối u của mKap đã được chứng minh. Sự phát triển của khối u được đo bằng cách định lượng immunoglobulin myeloma tiết ra trong vòng 6 tuần. Từ tuần thứ 4 trở đi, nồng độ immunoglobulin myeloma trong huyết thanh của các nhóm động vật nhận mKap tổng cộng 3.0, 1.5, 0.3 và 0.15 mg được phát hiện thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng chưa điều trị (P<0.005 vào tuần thứ 4; P<0.0001 vào tuần thứ 5). Tính đặc hiệu hạn chế khối u của mKap, cùng với khả năng ức chế sự phát triển tế bào MMκ in vitro và in vivo, gợi ý về khả năng sử dụng phiên bản chimeric hoặc humanized của kháng thể này, một mình hoặc kết hợp với hóa trị, để điều trị MM kappa.
HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG TỤT HUYẾT ÁP CỦA CÁC LIỀU TRUYỀN TĨNH MẠCH NORADRENALIN KHÁC NHAU TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐỂ MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả dự phòng tụt huyết áp và ảnh hưởng không mong muốn của ba liều truyền tĩnh mạch noradrenalin khác nhau trong gây tê tủy sống để mổ lấy thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: gồm 120 sản phụ mang thai đủ tháng có chỉ định gây tê tủy sống để mổ lấy thai chủ động được chia ngẫu nhiên làm ba nhóm nhận ba liều noradrenalin truyền tĩnh mạch là 0,025 µg/kg/phút; 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút ngay khi gây tê tủy sống. Các tiêu chí đánh giá chính gồm: tỉ lệ tụt huyết áp, tỉ lệ tăng huyết áp, tần số tim chậm, tỉ lệ buồn nôn và nôn, điểm Apgar và khí máu động mạch rốn. Kết quả: Tỉ lệ tụt huyết áp ở nhóm 0,05 µg/kg/phút và nhóm 0,075 µg/kg/phút (đều là 10%) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm 0,025 µg/kg/phút (27,5%) (p < 0,05). Tỉ lệ tăng huyết áp ở nhóm liều 0,075 µg/kg/phút là 5% (n=2), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 2 nhóm còn lại. Tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn ở mẹ, điểm Apgar sau 1 và 5 phút, khí máu động mạch rốn của sơ sinh là tương đương nhau giữa ba nhóm (p>0,05). Kết luận: Hai liều truyền tĩnh mạch noradrenalin 0,05 µg/kg/phút và 0,075 µg/kg/phút có hiệu quả làm giảm sự tụt huyết áp sau gây tê tủy sống trong mổ lấy thai hơn liều 0,025 µg/kg/phút. Liều 0,075 µg/kg/phút có thể gây tăng huyết áp. Không có sự khác biệt về tỉ lệ tần số tim chậm, buồn nôn và nôn, kết quả trên trẻ sơ sinh giữa ba nhóm nghiên cứu.
#noradrenalin #tụt huyết áp #dự phòng #gây tê tủy sống cho mổ lấy thai
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng không mong muốn của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Sự thay đổi về mạch và huyết áp cũng như các thay đổi về hô hấp: SpO2, tần số thở tại các thời điểm nghiên cứu không nhiều, trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt giữa ba nhóm với p > 0,05. Các tác dụng khác như bí tiểu, nôn, rét run, đau đầu không có sự khác biệt giữa 3 nhóm. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng không mong muốn không có sự khác biệt so với liều 0,2mg hay 0,1mg mà tác dụng vô cảm và giảm đau tốt hơn.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT CẮT TRĨ TRONG NGÀY DƯỚI GÂY TÊ TẠI CHỖ
Đặt vấn đề: Bệnh trĩ là bệnh lý vùng hậu môn lành tính, không gây tử vong nhưng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của người bệnh. Hiện nay, phẫu thuật cắt trĩ vẫn được xem là phương pháp điều trị triệt để nhất trong các trường hợp bệnh trĩ độ III, độ IV hoặc có biến chứng tắc mạch. Trong xu thế phát triển phẫu thuật trong ngày, nhằm phục vụ nhu cầu của người bệnh và giảm tải về chi phí y tế, việc phát triển phẫu thuật cắt trĩ trong ngày dưới gây tê tại chỗ trở nên cấp thiết. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, thực hiện trên với 55 người bệnh được phẫu thuật cắt trĩ dưới gây tê tại chỗ, và 48 người bệnh được phẫu thuật cắt trĩ dưới gây tê tủy sống tại khoa Ngoại tổng hợp, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh - Cơ cở 2 từ 1/2018 đến 12/2022. Kết quả: Không có sự khác biệt về điểm đau sau mổ theo thang điểm NRS và mức độ hài lòng giữa 2 nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, biến chứng bí tiểu sau mổ được ghi nhận ở nhóm gây tê tủy sống với tỉ lệ 6,3%, trái ngược với không có trường hợp nào trong nhóm gây tê tại chỗ (p=0,01). Thời gian mổ, thời gian nằm viện chung và thời gian nằm viện sau mổ dài hơn đáng kể ở nhóm gây tê tủy sống (p<0,001). Tổng chi phí khi ra viện của người bệnh nhóm gây tê tại chỗ thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm gây tê tủy sống (7.685.055 ± 2.122.364 VND so với 9.108.330 ± 2.267.286 VND, p=0,001, kiểm định t-test). Kết luận: Cắt trĩ dưới gây tê tại chỗ không có biến chứng sau mổ, có thời gian nằm viện ngắn hơn, và chi phí y tế thấp hơn so với gây tê tủy sống. Phương pháp gây tê tại chỗ phối hợp với thuốc an thần đường tĩnh mạch cho thấy tính khả thi trong thực hành lâm sàng.
#Cắt trĩ #hiệu quả #hài lòng #chi phí #gây tê tủy sống #gây tê tại chổ.
Gây tê tủy sống cho phẫu thuật ghép da trên bệnh nhân tiền sử cao huyết áp, suy thận, đái tháo đường, u tuyến yên (Thông báo lâm sàng).
Bệnh nhân với tiền sử cao huyết áp, suy thận, đái tháo đường, u tuyến yên phải trải qua phẫu thuật ghép da chi dưới mang đến nguy cơ trong và sau phẫu thuật. Việc lựa chọn phương pháp gây tê tủy sống với loại thuốc tê và liều lượng thích hợp là vô cùng quan trọng giúp cho cuộc phẫu thuật thành công.
#Cao huyết áp #suy thận #đái tháo đường #u tuyến yên #ghép da #gây tê tủy sống
SO SÁNH TÁC DỤNG GIẢM ĐAU SAU PHẪU THUẬT VÙNG DƯỚI RỐN Ở BỆNH NHÂN NHI GIỮA TIÊM MORPHIN 3MCG/KG TUỶ SỐNG VỚI TIÊM MORPHIN 30MCG/KG KHOANG CÙNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Giảm đau sau phẫu thuật nhi là rất cần thiết, tiêm morphin khoang cùng được áp dụng từ lâu nhưng tiềm ẩn tác dụng phụ cũng như khó khăn về kỹ thuật. Tiêm morphin tuỷ sống mới được áp dụng gần đây. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả giảm đau và tác dụng không mong muốn của 2 phương pháp. Nghiên cứu tiến cứu, thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên được tiến hành tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 75 bệnh nhân nhi, chia thành 2 nhóm: Nhóm 1 tiêm morphin 3mcg/kg tuỷ sống, Nhóm 2 tiêm morphin 30 mcg/kg khoang cùng. Kết quả: chỉ số nhân trắc, loại phẫu thuật không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Nhóm 1 có thời gian giảm đau là 32,1 ± 12,7 (giờ) dài hơn nhóm 2 là 28,9 ± 10,7 (giờ), khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Điểm FLACC của hai nhóm đều thấp dưới 3 tại các thời điểm nghiên cứu, nhu cầu thuốc giảm đau bổ sung tương đương ở hai nhóm. Không có bệnh nhân nào suy hô hấp trong 48h sau mổ, nhóm 1 có tỷ lệ nôn, buồn nôn và ngứa nhiều hơn nhóm 2, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, mức độ các triệu chứng nhẹ. Kết luận: nhóm tiêm morphin tuỷ sống có hiệu quả giảm đau tương tự nhóm tiêm morphin khoang cùng, không có bệnh nhân nào suy hô hấp, tác dụng phụ của nhóm tiêm tuỷ sống nhiều hơn nhưng không cần điều trị
#tê tuỷ sống #tê khoang cùng #gây mê hồi sức nhi
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG VÔ CẢM VÀ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN KẾT HỢP VỚI CÁC LIỀU MORPHIN KHÁC NHAU TRONG PHẪU THUẬT CHẤN THƯƠNG CHI DƯỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: So sánh tác dụng vô cảm và giảm đau sau mổ của GTTS bằng 8mg bupivacain 0.5% kết hợp với 100mcg, 200mcg, 300mcg morphin trong phẫu thuật chấn thương chi dưới tại bệnh viện Quân Y 105 từ tháng 11/2018 đến tháng 04/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu, có nhóm so sánh. Bệnh nhân được chia vào 03 nhóm ngẫu nhiên: Nhóm I gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,10mg. Nhóm II gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,20mg. Nhóm III gồm 40 bệnh nhân được GTTS bằng bupivacain liều 8mg kết hợp với morphin 0,3mg. Kết quả nghiên cứu: Thời gian vô cảm của 3 nhóm kéo dài và gần như nhau, với nhóm I, II và III là: ở mức T12 là 140 ¸ 235 phút; ở mức T10 là 90 ¸ 190 phút; ở mức T6 là 65 ¸ 135 phút, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Nhóm III dùng liều 0,3mg morphin có thời gian giảm đau sau mổ dài nhất là: 29,87 ± 7,00 giờ, tiếp đó nhóm II dùng liều 0,2mg morphin là 22,33 ± 4,44 giờ và thấp nhất là nhóm I dùng liều 0,1mg morphin 18,28 ± 3,86 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Liều dùng morphin giảm đau: nên dùng liều 0,3mg vì tác dụng thời gian giảm đau kéo dài so với liều 0,2mg hay 0,1mg.
#gây tê tủy sống #bupivacaine #morphin
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG NÔN, BUỒN NÔN BẰNG DEXAMETHASON 8MG VÀ ONDASETRON 4MG TRONG GÂY TÊ TỦY SỐNG BẰNG BUPIVACAIN VÀ MORPHIN TRONG MỔ LẤY THAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả dự phòng nôn và buồn nôn bằng dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg trong gây tê tủy sống bằng bupivacain và morphin sulphat để mổ lấy thai thực hiện tại bệnh viện phụ sản Hải phòng trong thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 2/2019. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu có so sánh. Nhóm đối chứng (nhóm 1): sử dụng thuốc chống nôn bằng dexamethasone 8mg và nhóm nghiên cứu (nhóm 2): có sử dụng phối hợp thuốc chống nôn dexamethasone 8mg và ondansetron 4mg. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethasone (với 15,6%) cao hơn so với nhóm sử dụng phối hợp phối hợp dexamethasone và ondansetron (với 6,9%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mức độ nôn - buồn nôn ở nhóm sử dụng đơn thuần dexamethason nặng hơn so với nhóm sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron ở tất cả các các mức độ. Kết luận: Nên sử dụng phối hợp dexamethasone và ondansetron để dự phòng nôn, buồn nôn cho bệnh nhân gây tê tủy sống trong mổ lấy thai.
#dexamethasone #ondansetron #gây tê tủy sống
SO SÁNH MỘT SỐ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ TỦY SỐNG - NGOÀI MÀNG CỨNG PHỐI HỢP VỚI GÂY TÊ TỦY SỐNG ĐƠN THUẦN ĐỂ MỔ LẤY THAI TRÊN SẢN PHỤ CÓ NGUY CƠ CAO TỤT HUYẾT ÁP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: So sánh một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê tủy sống - ngoài màng cứng phối hợp với gây tê tủy sống đơn thuần để vô cảm cho mổ lấy thai ở sản phụ có nguy cơ cao tụt huyết áp. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến hành trên 60 sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chủ động, có một trong các yếu tố nguy cơ cao tụt huyết áp sau gây tê tuỷ sống: đa thai, đa ối, thai to, được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm để thực hiện 2 kỹ thuật vô cảm khác nhau: nhóm I gây tê tuỷ sống với liều bupivacaine theo chiều cao của bệnh nhân(cao <150cm: 7mg, từ 150 - 160cm: 8mg, >160cm: 8,5 mg) và nhóm II gây tê tuỷ sống liều 5mg bupivacaine phối hợp với tê ngoài màng cứng 10ml Lidocaine 1% with adrenaline 1: 200 000, cả hai nhóm đều được tiêm dưới nhện 30mcg fentanyl. Các thuốc co mạch sẽ được dùng điều chỉnh theo mạch, huyết áp của sản phụ. Các tác dụng không mong muốn trên mẹ và con được theo dõi liên tục trong 48 giờ sau mổ. Kết quả: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp có tỷ lệ nôn, buồn nôn là 6,67% so với 23,3% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần (p < 0,05). Tỷ lệ ngứa, rét run ở nhóm gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp  là 23,3% và 13,3% so với 26,6% và 26,6% ở nhóm gây tê tủy sống đơn thuần; không gặp bệnh nhân nào bị suy hô hấp, an thần sâu, đau đầu, bí tiểu ở cả hai nhóm. Điểm Apgar phút thứ nhất và phút thứ 5 của trẻ sơ sinh ở hai nhóm đều > 8, không có sự khác biệt). Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con. Kết luận: Phương pháp gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp ít gặp nôn, buồn nôn hơn so với phương pháp gây tê tủy sống đơn thuần. Các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và con không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Không gặp các biến chứng nguy hiểm trên mẹ và con.
#Mổ lấy thai #gây tê tuỷ sống #gây tê tuỷ sống - ngoài màng cứng phối hợp #tác dụng không mong muốn
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA NEOSTIGMIN VÀ ATROPIN ĐỂ ĐIỀU TRỊ ĐAU ĐẦU SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG HOẶC GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG SẢN KHOA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Neostigmin và Atropin để điều trị đau đầu sau gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng trong sản khoa. 60 sản phụ đau đầu sau gây tê tủy sống hoặc gây tê ngoài màng cứng, đủ tiêu chuẩn lựa chọn được phân bố ngẫu nhiên để điều trị bằng Neostigmin 20mcg/kg và Atropin 10mcg/kg hoặc Paracetamol 1g. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi bệnh nhân ngồi thẳng 15 phút khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p < 0,05) ở các thời điểm sau tiêm thuốc 6 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 36 giờ, 48 giờ, 72 giờ. Nhóm Neostigmin + Atropin không có bệnh nhân nào cần làm thủ thuật vá máu ngoài màng cứng trong khi nhóm Paracetamol có 6 bệnh nhân (p<0,05).
#đau đầu sau gây tê tủy sống #đau đầu sau gây tê ngoài màng cứng #Neostigmin #Atropin
Tổng số: 47   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5